Phân vị trong cung Hậu_cung_Nhà_Thanh

Lương bổng

Cứ theo Cung trung tạp kiện (宫中杂件), Hậu phi nhà Thanh có lương bổng và thiện đãi nhất định, ngoài lượng bạc thì còn có các nhu yếu phẩm, hơn kém tùy vào cấp độ.

Tước vịLương bổng
(theo năm)
Nhu yếu phẩm
(theo năm)
Nhu yếu phẩm
(theo ngày)
Hoàng thái hậu[Chú 22]Vàng 20 lượng, bạc 2000 lượng
  • Các loại vải lụa: Mãng đoạn 2 thất, bổ đoạn 2 thất, chức kim 2 thất, trang đoạn 2 thất, uy đoạn 4 thất, thiểm đoạn 1 thất, kim tự đoạn 2 thất, vân đoạn 7 thất, y tố đoạn 4 thất, lam tố đoạn 2 thất, mạo đoạn 2 thất, dương đoạn 6 thất.
  • Lụa Tơ tằm 2 thất, lụa Sơn Tây 4 thất, chỉ 8 thất, sợi lót 10 thất, sợi dệt 10 thất, hàng tế 10 thất, lụa miên (một loại lụa dệt) 10 thất, vải cao ly 10 thất, vải ba vạch 5 thất, vải lông xanh 40 thất, vải thô 5 thất, chỉ/sợi vàng 20 lữu, nhung 10 cân, sợi bông 6 cân, mộc miên 40 cân.
  • Cúc bạc số hai 200, cúc bạc số ba 200
  • Da chồn loại hai 10, da chồn loại ba 20, da chồn loại năm 70, da chồn Lý (tên một loại chồn): 12, da rái cá biển 12
  • Lợn một con, dê, gà, vịt các loại 1 chỉ, gạo nếp mới 2 thăng, gạo vàng 1 thăng 5 hợp, gạo sông Cao Ly 3 thăng, bột nếp 3 cân, mì trắng 51 cân, mì kiều mạch, bột mì các loại 1 cân, đậu hạt 3 hợp.
  • Vừng 1 hợp 5 chước, đường trắng 2 cân 1 lượng 5 tiền, đường bát 8 lượng, mật ong 8 lượng, quả óc chó 4 lượng, hạt thông 2 tiền, cẩu kỷ (kỷ tử) 4 lượng, táo tàu khô 10 lượng, thịt lợn 12 cân, dầu mè 3 cân 10 lượng, trứng gà 20 quả, bột đậu 1 cân 8 lượng, đậu phụ 2 cân, bột oa tra 1 cân, tương ngọt 2 cân 12 lượng, nước tương trong 2 lượng, giấm 5 lượng.
  • Rau tươi 15 cân, cà tím 20 quả, dưa chuột 20 quả, sáp trắng 7 chi, sáp vàng 2 chi, sáp dầu cừu 20 chi, sáp dầu cừu cô đặc 1 chi.
  • Than Hồng La: mùa hè 20 cân, mùa đông 40 cân; than đen: mùa hè 40 cân, mùa đông 80 cân
Hoàng hậu[Chú 23]Bạc 1000 lượng
  • Các loại vải lụa: Mãng đoạn 2 thất, bổ đoạn 2 thất, chức kim 2 thất, trang đoạn 2 thất, uy đoạn 4 thất, thiểm đoạn 2 thất, kim tự đoạn 2 thất, vân đoạn 7 thất, y tố đoạn 4 thất, lam tố đoạn 2 thất, mạo đoạn 2 thất, dương đoạn 6 thất
  • Lụa Tơ tằm 2 thất, lụa Sơn Tây 4 thất, chỉ 8 thất, tơ 8 thất, sợi dệt 8 thất, hàng tế 8 thất, lụa miên 8 thất, vải cao ly 10 thất, vải ba vạch 5 thất, vải lông xanh 40 thất, vải thô 5 thất, chỉ/sợi vàng 20 lữu, nhung 10 cân, sợi bông 6 cân, mộc miên 40 cân.
  • Da chồn Lý 40, da chồn Ô Lạp (tên một loại chồn) 50
  • Thịt lợn 16 cân, thịt dê 1 mâm, gà, vịt các một loại chỉ, gạo nếp mới 1 thăng 8 hợp, gạo vàng 1 thăng 3 hợp 5 chước, gạo sông Cao Ly 1 thăng 5 hợp, bột nếp 1 cân 8 lượng, mì trắng 7 cân 8 lượng, mì kiều mạch 8 lượng, đậu hạt 3 hợp.
  • Đường trắng 1 cân, đường bát 4 lượng, mật ong 4 lượng, quả óc chó 2 lượng, hạt thông 1 tiền, cẩu kỷ (kỷ tử) 4 lượng, táo tàu khô 5 lượng, mỡ lợn 1 cân, dầu mè 1 cân, trứng gà 10 quả, diện cân 12 lượng, đậu phụ 1 cân 8 lượng, bột oa tra 1 cân, tương ngọt 1 cân 6 lượng 5 tiền, nước tương trong 1 lượng, giấm 2 lượng 5 tiền.
  • Rau tươi 15 cân, cà tím 20 quả, dưa chuột 20 quả, sáp trắng 5 chi, sáp vàng 4 chi, sáp dầu cừu 10 chi, sáp dầu cừu cô đặc 1 chi.
  • Than Hồng La: mùa hè 10 cân, mùa đông 20 cân; Than đen: mùa hè 30 cân, mùa đông 60 cân
Hoàng quý phi[Chú 24]Bạc 800 lượng
  • Các loại vải lụa: Mãng đoạn 1 thất, bổ đoạn 1 thất, chức kim 1 thất, trang đoạn 1 thất, uy đoạn 2 thất, thiểm đoạn 1 thất, kim tự đoạn 1 thất, vân đoạn 6 thất, y tố đoạn 3 thất, lam tố đoạn 3 thất, mạo đoạn 1 thất, dương đoạn 4 thất, bành đoạn 4 thất.
  • Lụa Tơ tằm 2 thất, lụa Sơn Tây 3 thất, chỉ 8 thất, chỉ lót 7 thất, tơ 7 thất, lụa dệt 7 thất, hàng tế 7 thất, lụa miên 6 thất, vải cao ly 8 thất, vải ba vạch 3 thất, vải lông xanh 15 thất, vải xanh đậm 15 thất, vải thô 5 thất, chỉ/sợi vàng 14 lữu, nhung 8 cân, sợi bông 6 cân, mộc miên 30 cân,
  • Da chồn Lý 30, da chồn Ô Lạp 40
  • Thịt lợn 12 cân, thịt dê 1 mâm, gà 1 chỉ (hoặc vịt 1 chỉ), gạo trần canh 1 thăng 5 hợp, gạo vàng 1 thăng 3 hợp 5 chước, gạo sông Cao Ly 1 thăng 5 hợp, bột nếp 1 cân 8 lượng, mì trắng 5 cân, mì kiều mạch 8 lượng, đậu hạt 3 hợp.
  • Đường trắng 5 lượng, đường bát 4 lượng, mật ong 4 lượng, quả óc chó 1 lượng, hạt thông 1 tiền, cẩu kỷ (kỷ tử) 4 lượng, táo tàu khô 5 lượng, mỡ lợn 1 cân, dầu mè 1 cân, trứng gà 10 quả, diện cân 12 lượng, đậu phụ 1 cân 8 lượng, bột oa tra 1 cân, tương ngọt 1 cân 6 lượng 5 tiền, nước tương trong 1 lượng, giấm 2 lượng 5 tiền.
  • Rau tươi 15 cân, cà tím 20 quả, dưa chuột 20 quả, sáp trắng 5 chi, sáp vàng 4 chi, sáp dầu cừu 10 chi, sáp dầu cừu cô đặc 1 chi.
  • Lá trà Lục An 14 lượng (mỗi tháng), Lá trà Thiên Trì 8 lượng (mỗi tháng)
  • Than Hồng La: mùa hạ 10 cân, mùa đông 20 cân, Than đen: mùa hạ 30 cân, mùa đông 60 cân,
Quý phi[Chú 25]Bạc 600 lượng
  • Các loại vải lụa: Mãng đoạn 1 thất, bổ đoạn 1 thất, chức kim 1 thất, trang đoạn 1 thất, uy đoạn 2 thất, thiểm đoạn 1 thất, kim tự đoạn 1 thất, vân đoạn 4 thất, y tố đoạn 3 thất, lam tố đoạn 2 thất, mạo đoạn 1 thất, dương đoạn 2 thất, bành đoạn 1 thất.
  • Lụa Tơ tằm 2 thất, lụa Sơn Tây 3 thất, chỉ 4 thất, chỉ lót 7 thất, tơ 7 thất, lụa dệt 7 thất, hàng tế 5 thất, lụa miên 5 thất, vải cao ly 6 thất, vải ba vạch 2 thất, vải lông xanh 12 thất, vải xanh đậm 12 thất, vải thô 5 thất, chỉ vàng 12 lữu, nhung 6 cân, sợi bông 4 cân, mộc miên 25 cân.
  • Da chồn Lý 20, da chồn Ô Lạp 30
  • Thịt lợn 9 cân 8 lượng, thịt dê 15 mâm (mỗi tháng), gà vịt cộng 15 chỉ (mỗi tháng), gạo trần canh 1 thăng 3 hợp 5 chước, mì trắng 3 cân 8 lượng
  • Đường trắng 3 lượng, quả óc chó 1 lượng, táo tàu khô 1 lượng 6 tiền, dầu mè 6 lượng, trứng gà 4 quả, diện cân 4 lượng, đậu phụ 1 cân 8 lượng, bột oa tra 8 lượng, tương ngọt 6 lượng 5 tiền, nước tương trong 8 tiền, giấm 2 lượng 5 tiền,
  • Rau tươi 10 cân, cà tím 8 quả, dưa chuột 8 quả, sáp trắng 2 chi, sáp vàng 2 chi, sáp dầu cừu 5 chi,
  • Lá trà Lục An 14 lượng (mỗi tháng), Lá trà Thiên Trì 8 lượng (mỗi tháng)
  • Than Hồng La: mùa hạ 10 cân, mùa đông 15 cân; Than đen: mùa hạ 30 cân, đông 60 cân,
Phi[Chú 26]Bạc 300 lượng
  • Các loại vải lụa: Mãng đoạn 1 thất, chức kim 1 thất, trang đoạn 1 thất, uy đoạn 2 thất, thiểm đoạn 1 thất, kim tự đoạn 1 thất, vân đoạn 4 thất, y tố đoạn 2 thất, lam tố đoạn 1 thất, mạo đoạn 1 thất, bành đoạn 3 thất
  • Lụa Tơ tằm 1 thất, lụa Sơn Tây 2 thất, chỉ 4 thất, chỉ lót 5 thất, tơ 5 thất, lụa dệt 4 thất, hàng tế 5 thất, lụa miên 5 thất, vải cao ly 5 thất, vải ba vạch 2 thất, vải lông xanh 10 thất, vải xanh đậm 10 thất, vải thô 3 thất, chỉ vàng 10 lữu, nhung 5 cân, sợi bông 3 cân, mộc miên 20 cân.
  • Da chồn Lý 10, da chồn Ô Lạp 20
  • Thịt lợn 9 cân, thịt dê 15 mâm (mỗi tháng), gà vịt cộng 10 chỉ (mỗi tháng), gạo trần canh 1 thăng 3 hợp 5 chước, mì trắng 3 cân 8 lượng,
  • Đường trắng 3 lượng, quả óc chó 1 lượng, táo tàu khô 1 lượng, dầu mè 6 lượng, trứng gà 4 quả, diện cân 4 lượng, đậu phụ 1 cân 8 lượng, bột oa tra 8 lượng, tương ngọt 6 lượng 5 tiền, giấm 2 lượng 5 tiền,
  • Rau tươi 10 cân, cà tím 8 quả, dưa chuột 8 quả, sáp trắng 2 chi, sáp vàng 2 chi, sáp dầu cừu 2 chi.
  • Lá trà Lục An 14 lượng (mỗi tháng), Lá trà Thiên Trì 8 lượng (mỗi tháng)
  • Than Hồng La: mùa hạ 5 cân, mùa đông 10 cân; Than đen: mùa hạ 25 cân, mùa đông 40 cân,
Tần[Chú 27]Bạc 200 lượng
  • Các loại vải lụa: Mãng đoạn 1 thất, chức kim 1 thất, trang đoạn 1 thất, uy đoạn 1 thất, thiểm đoạn 1 thất, kim tự đoạn 1 thất, vân đoạn 2 thất, y tố đoạn 2 thất, mạo đoạn 1 thất, dương đoạn 1 thất, bành đoạn 1 thất
  • Lụa Tơ tằm 1 thất, lụa Sơn Tây 2 thất, chỉ 1 thất, chỉ lót 2 thất, tơ 3 thất, lụa dệt 3 thất, hàng tế 3 thất, vải cao ly 4 thất, vải lông xanh 8 thất, vải xanh đậm 8 thất, vải thô 4 thất, chỉ vàng 6 lữu, nhung 3 cân, sợi bông 3 cân, mộc miên 15 cân.
  • Da chồn Lý 4, da chồn Ô Lạp 20
  • Thịt lợn 6 cân 8 lượng, thịt dê 15 mâm (mỗi tháng), gà vịt cộng 10 chỉ (mỗi tháng), gạo trần canh 1 thăng 3 hợp, mì trắng 2 cân,
  • Đường trắng 2 lượng, dầu mè 5 lượng 5 tiền, đậu phụ 1 cân 8 lượng, bột oa tra 8 lượng, tương ngọt 6 lượng, giấm 2 lượng
  • Rau tươi 8 cân, cà tím 6 quả, dưa chuột 6 quả, sáp trắng 2 chi, sáp vàng 2 chi, sáp dầu cừu 2 chi
  • Lá trà Lục An 14 lượng (mỗi tháng), Lá trà Thiên Trì 8 lượng (mỗi tháng)
  • Than Hồng La: mùa hạ 5 cân, mùa đông 8 cân; Than đen: mùa hạ 20 cân, mùa đông 30 cân,
Quý nhân[Chú 28]Bạc 100 lượng
  • Các loại vải lụa: Uy đoạn 1 thất, vân đoạn 2 thất, y tố đoạn 2 thất, lam tố đoạn 2 thất, mạo đoạn 1 thất, dương đoạn 1 thất.
  • Lụa Tơ tằm 1 thất, lụa Sơn Tây 2 thất, chỉ 2 thất, chỉ lót 2 thất, tơ2 thất, lụa dệt 2 thất, vải cao ly 3 thất, vải lông xanh 6 thất, vải xanh đậm 6 thất, vải thô 3 thất, chỉ vàng 3 lữu, nhung 3 cân, sợi bông 2 cân, mộc miên 12 cân.
  • Da chồn Lý 4, da chồn Ô Lạp 10
  • Thịt lợn 6 cân, thịt dê 15 mâm (mỗi tháng), gà vịt cộng 8 chỉ (mỗi tháng), gạo trần canh 1 thăng 2 hợp, mì trắng 2 cân,
  • Đường trắng 2 lượng, dầu mè 3 lượng 5 tiền, đậu phụ 1 cân, bột oa tra 8 lượng, tương ngọt 6 lượng, giấm 2 lượng
  • Rau tươi 6 cân, cà tím 6 quả, dưa chuột 6 quả, sáp trắng 1 chi, sáp vàng 1 chi, sáp dầu cừu 1 chi,
  • Lá trà Lục An 7 lượng (mỗi tháng), Lá trà Thiên Trì 4 lượng (mỗi tháng)
  • Than Hồng La mùa đông 5 cân; Than đen: mùa hạ 18 cân, mùa đông 25 cân,
Thường tại[Chú 29]Bạc 50 lượng
  • Vân đoạn 1 thất, y tố đoạn 1 thất, bành đoạn 1 thất, lụa Tơ tằm 1 thất, lụa Sơn Tây 1 thất, chỉ 1 thất, tơ 1 thất, vải dệt 1 thất, mộc miên 3 cân
  • Thịt lợn 5 cân, thịt dê 15 mâm (mỗi tháng), gà vịt cộng 5 chỉ (mỗi tháng), gạo trần canh 1 thăng 2 hợp, mì trắng 2 cân
  • Đường trắng 2 lượng, dầu mè 3 lượng 5 tiền, đậu phụ 1 cân 8 lượng, bột oa tra 8 lượng, tương ngọt 6 lượng, giấm 2 lượng
  • Rau tươi 6 cân, cà tím 6 quả, dưa chuột 6 quả, sáp trắng 2 chi, sáp dầu cừu 1 chi,
  • Than đen: mùa hạ 10 cân, mùa đông 20 cân
Đáp ứng[Chú 30]Bạc 30 lượng
  • Vân đoạn 1 thất, y tố đoạn 1 thất, bành đoạn 1 thất, lụa Tơ tằm 1 thất, lụa Sơn Tây 1 thất, chỉ 1 thất, tơ 1 thất, vải dệt 1 thất, mộc miên 3 cân
  • Thịt lợn 1 cân 8 lượng, thịt dê 15 mâm (mỗi tháng), gà vịt cộng 5 chỉ (mỗi tháng), gạo trần canh 6 hợp, mì trắng 2 cân,
  • Rau tươi 2 cân, sáp vàng 1 chi, Sáp dầu cừu 1 chi
  • Than đen: hạ 5 cân, đông 10 cân
Quan nữ tử[Chú 31]Bạc 6 lượng
  • Vân đoạn 1 thất, lụa Tơ tằm 1 thất, chỉ 1 thất, lụa dệt 1 thất, hàng tế 1 thất, mộc miên 2 cân
  • Thịt lợn 1 cân, gạo trắng già 7 hợp 5 chước,
  • Rau tươi 12 lượng
  • Than vụn đen: 3 tiền

Đơn vị đo lường:

  • Đơn vị số lượng vật phẩm: "chỉ" chuyên dành cho gia cầm, "chi" dành cho những thứ như bút nến
  • 1 thăng = 10 hợp = 100 chước, tương đương 10.354688 ml ngày nay
  • 1 cân = 10 lượng = 100 tiền, tương đương 0.5 kg ngày nay
  • 1 thất = 10 trượng = 100 xích, tương đương 33m ngày nay

Hồng La than (红罗炭)[35]: loại than đá chuyên sử dụng trong cung đình thời nhà Minh và nhà Thanh, làm bởi xưởng Hồng La ngay ngoài cổng Tây An. Than Hồng La được làm từ các cây gỗ cứng của phủ Thuận Thiên, làm theo quy trình nghiêm ngặt được giám sát bởi bộ Lễ. Tính chất của loại than này là cháy lâu, lửa nóng, khi cháy không mùi không khói phù hợp yêu cầu của cung đình.

Phẩm phục

Triều phục

Triều phục thể hiện trên tranh chân dung của Hiếu Kính Hiến hoàng hậu.Triều phục thể hiện trong tranh chân dung của Hiếu Đức Hiển hoàng hậu.Triều phục Hoàng hậu của Hiếu Hiền Thuần hoàng hậu.Triều phục Hoàng quý phi của Tuệ Hiền Hoàng quý phi.

Đối với một Hậu phi nhà Thanh, trang phục vào dịp sắc phong hoặc đại lễ luôn được yêu cầu, không chỉ thể hiện vinh quang của nhà Thanh, mà còn thể hiện địa vị của vị phi tần đó. Theo quy định nhà Thanh, một lễ phục cơ bản của Hậu phi là: Triều quan (朝冠), Kim ước (金约), Nhị ước (珥约), Lãnh ước (领约), Triều châu (领约), Thải thuế (彩帨), Triều quái (朝褂), Triều bào (朝袍), Triều váy (朝裙) cùng Triều ủng (朝靴) mười loại tạo thành[36].

Chủ yếu quần áo từ ngoài vào trong, phân biệt là: Triều quái, Triều bào và Triều váy 3 thứ. Thái hoàng thái hậu, Hoàng thái hậu và Hoàng hậu đều giống nhau, đơn giản vì danh xưng Thái hậu ý chỉ “Hoàng hậu của Tiên đế” nên trang phục cùng Hoàng hậu đồng dạng. Xuống dưới tần phi tước Tần trở lên và mệnh phụ cấp cao mới cùng giống, và cũng chỉ có Tần trở lên mới có Triều quái, Triều bào, Triều quan mà thôi.

  • [Triều quái; 朝褂]: là một loại áo khoác mặc bên ngoài Triều bào ở dưới Phi lĩnh. Theo Khâm định Đại Thanh hội điển sự lệ ghi lại thì: “Sắc dùng thanh, trường vạt vô mệ, dệt kim long văn, dệt kim lụa hoặc dệt kim lụa nạm biên”.
  1. Triều quái không có tay áo, cân vạt và dài. Loại áo này có cơ bản 4 thể, loại đầu tiên có thể thấy trên tranh vẽ Hiếu Kính Hiến hoàng hậu của Ung Chính Đế và một số tranh Hậu phi đời trước, đều cùng một loại mẫu để vẽ. Thể thức này tay áo màu lam, vạt áo xẻ tà đằng trước, viền áo nạm kim, trước ngực là một hình rồng chính long, vạt áo có 2 hành long, phía dưới vạt áo có thể thức bát bảo bình thủy. Có thể tạm xem đây là thể thức thời Khang-Ung thường dùng, vì bức họa các vị Hoàng hậu trở ra trước đều như vậy.
  2. Một số hình vẽ mệnh phụ thời gian này cũng có hình thức Triều quái tương tự như vậy. Loại thức này chính thức sang thời Càn Long trung kỳ bị bãi bỏ. Thời kỳ này, triều đình quy định Triều quái Hoàng hậu dùng màu xanh, trước sau là 2 hình đại lập long. Cứ theo [Khâm định cung trung hiện hành tắc lệ; 钦定宫中现行则例] thời Càn Long ghi lại: “Triều quái, sắc dùng xanh đá, phiến kim duyên, thêu văn trước sau lập long các nhị” (乾隆《钦定宫中现行则例》“朝褂,色用石青,片金缘,绣文前后立龙各二”). Phía dưới, Hoàng tử Phúc tấn đến Huyện chúa đều dùng thức trước 4 sau 3 hình rồng.
  3. Một loại Triều quái khác, gọi là “Hữu điệp triều quái” (有褶朝褂; dạng triều quái có tầng khúc). Loại này ở phần ngực trước sau thêu 2 hình lập long, phía dưới chia ra 4 tầng, hàng 1 và 3 thêu hành long, hàng 2 và 4 thêu vạn phúc vạn thọ đồ hình cùng với mây tía giao nhau. Loại này chỉ có tần phi trở lên dùng. Năm Càn Long thứ 36, Thanh Cao Tông vì Sùng Khánh Thái hậu vạn thọ mà ở Từ Ninh cung cử hành vạn thọ tiết, trong dịp này có [Từ Ninh yến hỉ đồ; 慈宁燕喜图], thể hiện tần phi trong điện đều vận dạng này Triều quái.
  4. Còn một loại Triều quái, thể hiện từ sau thời Càn Long trở đi. Cơ bản cũng là dạng 2 hình lập long, song hình lập long dời xuống hai vạt, viền áo thể hiện hình hoa văn vạn phúc vạn thọ cùng mây tía giao nhau, ở dưới vạt áo ngoài hoa văn sóng nước thì còn có các dải màu xanh, đỏ, lục, vàng, huyền xen kẽ nhau. Dạng thức này đến hết thời Thanh, có thể thấy các tranh Hoàng hậu đều là dạng này cả, như tranh vẽ Hiếu Đức Hiển hoàng hậu. Chỉ riêng đến thời Uyển Dung đăng vị Hoàng hậu, lại dùng thể thức Hữu điệp triều quái.
  • [Triều bào; 朝袍]: là áo mặc chính trong bộ lễ phục của Hậu phi. Bộ triều phục gồm hai yếu tố quan trọng là: Mã đề tụ (马蹄袖; ống tay hình móng ngựa) cùng Phi lĩnh (披领; loại cổ giả khoác lên vai, còn gọi “Khoát lĩnh”), sau đó còn có cổ áo tròn (viên lĩnh), tay áo hẹp nách rộng có viền, hai sườn mở vạt, có hoa văn rồng, đều lấy hình thức cửu long. Hoàng thái hậu, Hoàng hậu và Hoàng quý phi đều dùng Triều bào màu Minh hoàng sắc (明黄色).
  • [Triều váy; 朝裙], có hai loại, một là có áo hai là không dựa theo hiện vật thật. Hậu phi triều phục sử dụng trường hợp rất ít, chỉ ở trọng đại lễ nghi lễ mừng sử dụng, tỷ như đông chí, Nguyên Đán, vạn thọ, sắc phong,... và duy nhất lễ hiến tế tầm đàn của Hoàng hậu chủ trì. Hoàng Hậu triều váy, mùa Đông dùng phiến kim thêm hải long duyên, trên dùng hồng dệt kim thọ tự lụa, xuống dùng xanh đá hành long trang lụa, toàn dùng chính phúc, có bích tích. Mùa hè, triều váy dùng phiến kim duyên. Từ Hoàng hậu đến tần đều có quy chế như nhau.
  • [Triều quan; 朝冠]: là một dạng mũ dùng cho Triều phục, ở giữa có một vật trang trí có tầng Kim phượng, xung quanh còn gắn một vòng những con Kim phượng và một con Kim địch ở sau gáy mũ. Mặt sau của Triều quan, ở dưới đuôi Kim địch có gắn chuỗi Rũ châu làm trang sức. Phía sau của Triều quan có 1 tấm Hộ Lãnh - nguyên liệu dùng giống vành Triều quan rũ xuống phía dưới. Có hai loại Triều quan, 1 cho mùa hè còn một cho mùa đông.
  1. Triều quan của Hoàng thái hậu, Hoàng hậu: mùa đông dùng da huân chồn, mùa hạ dùng Nhung xanh (có tài liệu ghi là Nhung đen) bọc ngoài. Trên đỉnh đính Chu vĩ (chính là phần lông mềm màu đỏ). Đỉnh có 3 tầng, mỗi tầng cách 1 viên Đông châu và một con Kim phượng, trên thân Kim phượng gắn 3 viên Đông châu, 17 viên Trân châu, trên cùng của đỉnh Triều quan gắn một 1 viên Đông châu cỡ lớn. Trên Chu vĩ có đính bảy con Kim phượng, trên thân Kim phượng gắn 9 viên Đông châu, 1 viên đá mắt mèo, 21 viên Trân châu; một con Kim địch, trên thân Kim địch gắn 1 viên đá mắt mèo, 16 viên Trân châu nhỏ. Chim Địch rũ châu, có 302 viên, kết thành 5 hàng dãy rũ. Dây rũ dùng Minh Hoàng sắc.
  2. Triều quan của Hoàng quý phi, Quý phi: lệ như của Hoàng hậu, mùa Đông dùng da Huân chồn, mùa hạ dùng Nhung xanh, đại khái như Hoàng hậu. Nhưng đuôi chim Địch sức 192 viên, kết thành 3 hàng dây rũ. Quý phi dây rũ dùng màu Kim hoàng sắc.
  3. Triều quan của Phi: trên đỉnh chỉ có 2 tầng, mỗi tầng cách 1 viên Đông châu và một con Kim phượng, trên thân Kim phượng gắn 9 viên Đông châu, 17 viên Trân châu, trên đỉnh dùng đá mắt mèo. Trên Chu vĩ có đính năm con Kim phượng, sức 7 Đông châu, 21 trân châu; sau 1 Kim địch, đều như Quý phi. Chim Địch rũ châu, có 188 viên, kết thành 3 hàng dây rũ, đều như Quý phi.
  4. Triều quan của Tần: lệ như Quý phi, có 2 tầng, mặt trên cùng khảm đá Kha. Thân Kim phượng gắn 5 viên Đông châu, 19 viên Trân châu, Kim địch phía sau sức 16 Trân châu, rũ dây tổng 172 viên, còn lại đều như Phi.
  • [Thải thuế; 彩帨]: dây rũ bằng vải trước ngực của các bộ Triều quái, được cột bằng dây có màu theo quy định.
  1. Thải thuế của Hoàng hậu thường màu xanh biếc, thêu Ngũ cốc được mùa, dây cột màu Minh hoàng.
  2. Thải thuế của Hoàng quý phi, cùng Hoàng hậu tương đồng.
  3. Thải thuế của Quý phi, dây cột màu Kim hoàng, còn lại như Hoàng quý phi.
  4. Thải thuế của Phi, thêu hình Vân chi thụy bảo, còn lại như Quý phi.
  5. Thải thuế của Tần không thêu hoa văn, còn lại như của Phi.
  • [Triều châu; 领约]: một bộ dây ngọc khoác bên ngoài Triều quái, thành phần gồm 3 bộ, trong đó có 1 chuỗi dây bằng đá và 2 chuỗi san hô (màu đỏ), dây cột có màu. Hoàng hậu và Phi tần dựa theo chất liệu của Triều châu cùng màu của dây cột mà phân định:
  1. Hoàng hậu: 1 dây Đông châu (màu trắng), 2 dây San hô, dây thắt màu Minh hoàng.
  2. Hoàng quý phi: 1 dây Mật phách (màu vàng mật), 2 dây San hô, dây thắt màu Minh hoàng.
  3. Quý phi: quy chế như của Hoàng quý phi, riêng dây thắt màu Kim hoàng.
  4. Phi: quy chế như của Quý phi.
  5. Tần: 1 dây San hô, 2 dây Mật phách, dây thắt màu Kim hoàng.
  • [Lãnh ước; 领约]: là cái kiềng đeo trên cổ Triều quái.
  1. Hoàng hậu: có 11 Đông châu, ở giữa lấy San hô, dây rũ ở 2 đầu dùng màu Minh hoàng, ở giữa các dây sức San hô, ở đuôi các dây sức đá Ngọc lam.
  2. Hoàng quý phi: có 7 Đông châu, ở giữa lấy San hô, dây rũ ở 2 đầu dùng màu Minh hoàng, ở giữa các dây sức San hô, ở đuôi các dây cũng sức San hô.
  3. Quý phi: màu dây là Kim hoàng, còn lại như Hoàng quý phi.
  4. Phi và Tần: đều như Quý phi.
  • [Kim ước; 金约]: dây đeo trên trán, để giữ Triều quan.
  1. Hoàng hậu: khắc 13 hình Kim vân, mỗi hình sức 1 viên Đông châu, ở giữa dùng Thanh Kim thạch, Hồng Phiến kim. Ở sau rũ 1 dẫy ngọc, đều là trân châu, sức 324 viên, phân làm 5 hàng rũ, ở đuôi mỗi hàng rũ là sức 1 viên Đại trân châu. Giữa 5 hàng rũ có nối khoảng 2 viên Thanh Kim thạch, sức 8 viên Đông châu và 8 viên Trân châu xen kẽ.
  2. Hoàng quý phi và Quý phi: khắc 12 hình Kim vân, mỗi hình sức 1 viên Đông châu, ở giữa dùng Thanh Kim thạch, Hồng Phiến kim. Ở sau rũ 1 dẫy ngọc, đều là trân châu, sức 204 viên, phân làm 3 hàng rũ, ở đuôi mỗi hàng rũ là sức 1 viên Đại trân châu. Giữa 3 hàng rũ có nối khoảng 2 viên Thanh Kim thạch, sức 6 viên Đông châu và 6 viên Trân châu xen kẽ.
  3. Phi: khắc 11 hình Kim vân, mỗi hình sức 1 viên Đông châu, ở giữa dùng Thanh Kim thạch, Hồng Phiến kim. Ở sau rũ 1 dẫy ngọc, đều là trân châu, sức 194 viên, phân làm 3 hàng rũ, ở đuôi mỗi hàng rũ là sức 1 viên Đại trân châu. Giữa 3 hàng rũ có nối khoảng 2 viên Thanh Kim thạch, sức 6 viên Đông châu và 6 viên Trân châu xen kẽ.
  4. Tần: khắc 8 hình Kim vân, mỗi hình sức 1 viên Đông châu, ở giữa dùng Thanh Kim thạch, Hồng Phiến kim. Ở sau rũ 1 dẫy ngọc, đều là trân châu, sức 177 viên, phân làm 3 hàng rũ, ở đuôi mỗi hàng rũ là sức 1 viên Đại trân châu. Giữa 3 hàng rũ có nối khoảng 2 viên Thanh Kim thạch, sức 4 viên Đông châu và 4 viên Trân châu xen kẽ.
  • [Nhị; 珥]: tức là trang sức đeo ở lỗ tai, theo truyền thống người Mãn, Hậu phi đều xỏ 3 lỗ ở tai và đeo 3 viên trang sức hoa tai vào khi mặc Triều phục. Theo quy chế, hình hoa tai của tần phi đều có hình rồng làm bằng vàng, ngoài ra còn sức trân châu mỗi bông 2 viên, tuy nhiên chất lượng trân châu tùy cấp bậc mà khác biệt:
  1. Hoàng hậu: hoa tai dùng Nhất đẳng Trân châu;
  2. Hoàng quý phi và Quý phi: dùng Nhị đẳng Trân châu;
  3. Phi: dùng Tam đẳng Trân châu;
  4. Tần: dùng Tứ đẳng Trân châu;

Cát phục

Khác với Triều phục phải dịp trọng đại vinh hiển mới được mặc, còn thì những việc hỉ hay cần trang trọng một chút, các Hậu phi đều mặc một thứ phục sức gọi là Cát phục (吉服). Trong các triều đại Trung Quốc, chỉ có nhà Thanh là chính thức quy định loại phục sức này, dù trước đó nhà Minh đã hình thành khái niệm rồi. Loại phục sức này cơ bản giống loại tiếp theo gọi Thường phục, nhưng hoa văn trang sức mỹ lệ, nên còn gọi là Thải phục (彩服) hay Hoa y (花衣). Một bộ Cát phục bao gồm: Long quái (龙褂) mặc ngoài và Long bào (龙袍) mặc bên trong.

Hiếu Hiền Thuần hoàng hậu của Càn Long Đế mặc Long quái bên ngoài Long bào.
  • [Long quái; 龙褂], gọi như vậy loại áo “Quái” là dạng áo có xẻ vạt, thân áo dài, ống tay tương đối dài, nhưng không có thức Mã đề tụ, đều có màu xanh đen (tức là Thạch Lam sắc). Theo khai quật được, thì Quái của Đế vương là áo xẻ trước sau, trái phải thành 4 vạt, còn Hậu phi chỉ xẻ đằng sau. Nhưng cứ theo nhiều hình họa thời Thanh sơ kỳ, cho thấy áo nữ cũng xẻ trước sau trái phải 4 vạt như nam giới. Này cũng tương đối dễ hiểu vì đa phần quần áo thời kỳ trước nam nữ khá là giống nhau một cái hình thức.
  1. Hoa văn Long quái, thuở ban đầu là dạng Mãn trang (满装), một thân áo toàn hình Mãn thêu mây. Dạng hoa văn này từ thời Minh hậu kỳ đã hình thành. Năm Khang Hi thứ 25, cứ 《Tô Châu dệt cục chí》 có ghi nhận những thứ như “Mãn trang quái”, “Phong vân địa long thủy quái”...chính là thể Long quái này. Thể thức này, trước sau ngực thường là trước 2 sau 1 hình chính long, bả vai mỗi vai 1 chính long, ở hai vạt áo có hình phúc hành long trước sau 2 hình, cộng lại đủ 9 hình long. Bên dưới vạt có thể hoa văn “hải thủy giang nhai” (海水江崖). Ngoài ra còn có “Tứ long thức”; là trước sau hai hình đại lập long, hai vai mỗi vai hình 1 long. Loại áo Mãn trang quái này thời Khang-Ung khai quật hiện vật chiếm tỉ lệ rất cao.
  2. Thuở từ thời Càn Long trở đi, cho đến vãn kỳ, đều là dạng Đoàn long trang (团龙装). Đoàn long, tức là hình rồng ổ cuộn tròn, ngoài đoàn long phân bố ở hai vai, trước sau vùng ngực và trước sau phía dưới vạt áo, thì còn lại để trống và áo thường màu xanh đậm. Một số loại áo thêm hình sóng nước ở vạt áo và dải màu ở ống tay áo.
  • [Long bào; 龙袍], cũng gọi Mãng bào (蟒袍) hay Cát phục bào (吉服袍), loại áo mặc bên trong và cũng là áo chính của một bộ Cát phục thời Thanh. Áo thể viên lĩnh (cổ tròn), ống tay áo dạng Mã đề tụ, khai vạt trái phải, thân áo dài, lĩnh khâm (viền cổ áo) có viền hoa văn. Đại để khá tương đồng với Long bào của phái nam trong hoàng thất.
  1. Hoa văn của áo thường là Mãn địa văn (满地纹; hình hoa văn phủ khắp áo) và Đoàn văn (团纹; hình hoa văn ổ). Thời sơ kỳ, áo bào của Đế-Hậu cùng dạng đoàn long, sau chỉ có Hậu phi sử dụng. Ngoài ra dưới vạt áo cũng có hoa văn cột thủy, sóng thủy và đôi khi có đề tài dơi, mây phủ rải rác thân áo bên cạnh đoàn long (cái này khác với dạng mãn địa văn).
  2. Cát phục thường mặc Long quái bên ngoài Long bào, song cũng có trường hợp chỉ mặc Long bào, nhưng do trang phục hoa văn của Long bào khá bắt mắt nên thông thường họ cũng không để lộ ra, chỉ khi vẽ tranh là thường như vậy.
  3. Long bào quy định màu sắc, tương tự triều bào: Thái hậu, Hoàng hậu và Hoàng quý phi dùng màu Minh hoàng, Quý phi và Phi dùng màu Kim hoàng, còn Tần dùng màu Hương.
Lệnh phi mặc Long bào, không khoác Long quái.

Quy định về Cát phục của các bậc Hậu phi cụ thể như sau:

  1. Hoàng hậuHoàng quý phi: Long quái có 8 hình Ngũ trảo Kim long (五爪金龙) theo thể thức hình tròn khép kín, 2 vai là hình Chính long (正龙; hình rồng quay mặt ra chính diện), vát áo trước thêu 4 hình Hành long (行龙; hình rồng xoãi dài bề ngang), bên dưới là hình Bát bảo, Cột thủy, tay áo thêu hình Hành long. Còn một loại áo Long quái thì bên dưới không có Bát bảo Cột thủy, tay áo cũng không thêu hình gì. Long bào dùng màu Minh hoàng, cổ áo giả (Lĩnh tụ) dùng màu Thạch lam, toàn thân áo thêu 9 hình Kim long, xen kẽ là hình Ngũ sắc vân, Phúc thọ văn thải, trước sau chính giữ cổ là hình Chính long, trái phải có các hình Hành long tụ về, tay áo tương tiếp mỗi chỗ 2 hình Hành long, khai vạt. Loại áo thứ 2 Long bào, thêu Ngũ trảo Kim long 8 hình, 2 vai thêu Chính long, vạt áo 4 hình Hành long, bên dưới có Bát bảo, Cột thủy. Một loại nữa không có hoa văn bên dưới, còn lại đều như các loại trên.
  2. Quý phiPhi: đều có thể thức hoa văn tương tự với Hoàng hậu và Hoàng quý phi, cả Long quái và Long bào, duy Long bào đều dùng màu Kim hoàng.
  3. Tần loại dùng Long quái trước sau và 2 vai đều là Chính long, ở vạt áo dùng Quỳ long (夔龙; hình rồng lượn trong 1 hình tròn nhưng không quay chính diện), còn lại như Quý phi và Phi. Long bào của Tần dùng màu Hương, còn lại đều như trên.

Án theo lễ chế, Cát phục sẽ có Cát phục quan (吉服冠). Loại Cát phục quan này, có thể thấy giống với mũ nam giới, đầu là dạng mũ chóp lông đỏ, có thể tùy theo cấp bậc mà có điểm trang sức. Song trong các tranh họa thời kỳ này cũng có người không đội mũ mà chỉ biện tóc, tùy ý cài thêm hai ba loại trang sức. Lại có người dùng khăn đen phủ đầu, cài trâm. Sau này, loại khăn đó hình thành và đỉnh điểm ở thời Càn Long, đã ra Điền tử (钿子), một trong những loại phúc sức tiêu biểu của phụ nữ quý tộc nhà Thanh.

Điền tử về sau ngày càng gắn lên đó nhiều trang sức, trở thành một loại “Cát phục quan” không có trong điển lễ. Điền tử này trải qua quá trình biến đổi hình dạng, cuối cùng thành hình thể “thiên can” (挑杆) là hoàn chỉnh.

Tâm tả trị bình đồ (心寫治平圖) của Lang Thế Ninh, thể hiện từ Hoàng hậu đến phi tần đều mặc Long bào cát phục

Phân định

  • Hoàng thái hậu, Hoàng hậuHoàng quý phi: đều có Triều bào, Triều quái và Triều quan như nhau. Triều bào và dây thao sau Triều quái có màu Minh hoàng sắc (明黄色), còn Triều quan có 3 tầng. Hoàng thái hậu và Hoàng hậu đều y như nhau, còn Hoàng quý phi tuy tương đồng, song Triều châu của Hoàng quý phi không có sợi Đông châu trắng, mà dùng Mật phách ngả vàng.
  • Quý phi, PhiTần: màu áo Triều bào và màu dây thao sau Triều quái là Kim hoàng sắc (金黄色). Triều quan của Quý phi là 3 tầng, của Phi và Tần chỉ có 2 tầng. Màu Triều bào của Tần là Hương sắc (香色). Còn lại đều như Hoàng quý phi.
  • Phúc tấn, Trắc Phúc tấn của Hoàng tử, Thân vương, Quận vương, cũng như Cố Luân Công chúaHòa Thạc Công chúa: đều có Triều phục và Triều quan, khi mặc Long quái chỉ gọi là Cát phục quái (吉服褂).
  1. Hoàng tử Phúc tấn: Cát phục quái, thêu Ngũ trảo Chính long tứ đoàn (五爪正龙四团), trước sau-hai vai từng chỗ một hình.
  2. Thân vương Phúc tấn: Cát phục quái, thêu Ngũ trảo Kim long tứ đoàn (五爪金龙四团), trước sau Chính long, hai vai Hành long (行龙).
  3. Thế tử Phúc tấn: án theo Thân vương Phúc tấn.
  4. Quận vương Phúc tấn: Cát phục quái, thêu Ngũ trảo Hành long tứ đoàn (五爪行龙四团), trước sau-hai vai từng chỗ một hình.
  5. Bối lặc Phu nhân: Cát phục quái, trước sau thêu Tứ trảo Chính mãng (四爪正蟒) các một.
  6. Bối tử Phu nhân: Cát phục quái, trước sau thêu Tứ trảo Hành mãng (四爪行蟒) các một.
  7. Trấn Quốc công phu nhân: Cát phục quái thêu hoa Bát đoàn.
  8. Phụ Quốc công phu nhân: y như Trấn Quốc công phu nhân.
  9. Trấn quốc tướng quân phu nhân: quan, phục đều như Nhất phẩm mệnh phụ;
  10. Phụ quốc tướng quân phu nhân: quan, phục đều như Nhị phẩm mệnh phụ;
  11. Phụng quốc tướng quân thê tử, phong Thục nhân (淑人), quan, phục đều Tam phẩm mệnh phụ;
  12. Phụng ân tướng quân thê tử, phong Cung nhân (恭人), quan, phục đều theo Tứ phẩm mệnh phụ;
  13. Cố Luân công chúa, Hòa Thạc công chúa và Quận chúa y phục như Thân vương Phúc tấn;
  14. Huyện chúa y phục như Quận vương Phúc tấn;
  15. Quận quân đều như Bối lặc Phu nhân;
  16. Huyện quân đều như Bối tử Phu nhân;
  17. Hương quân, con gái Trấn Quốc công và Phụ Quốc công, đều như Trấn Quốc công phu nhân;
  18. Dân công phu nhân, Hầu phu nhân, Bá phu nhân, đến Tam phẩm Mệnh phụ: y phục như Trấn Quốc công phu nhân, sắc dùng xanh đá, thêu hoa Bát đoàn;